Một số vấn đề về lý luận dạy học Sinh học
I. Khái niệm về phương pháp dạy học
Quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố cơ bản là hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này phối hợp chặt chẽ với nhau, kết quả của hoạt động này phụ thuộc vào hoạt động kia và ngược lại, nếu thiếu một trong hai hoạt động đó thì hoạt động dạy học không diễn ra. Nếu thiếu hoạt động dạy của GV thì chỉ là hoạt động tự học của người học. Còn nếu thiếu hoạt động học của người học thì hoạt động dạy không diễn ra, do đó không diễn ra hoạt động dạy học. Quá trình dạy và học liên hệ mật thiết với nhau, diễn ra đồng thời và phối hợp chặt chẽ tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và hoạt động học, từ đó tạo nên hiệu quả cho quá trình dạy học.
Phương pháp dạy học (PPDH) chính là một sự thống nhất biện chứng giữa phương pháp dạy và phương pháp học. Trong sự thống nhất này, phương pháp dạy đóng vai trò chủ đạo, phương pháp học có tính độc lập tương đối nhưng chịu sự chi phối của phương pháp dạy, đồng thời cũng có ảnh hưởng trở lại với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy gồm có hai chức năng gắn bó hữu cơ với nhau là chức năng truyền đạt và chức năng chỉ đạo (chức năng điều khiển). Giáo viên phải truyền đạt cho HS một nội dung khoa học nào đó theo một logic hợp lý, rồi từ logic nội dung đó mà định hướng tổ chức, hướng dẫn hay kiểm tra- đánh giá HS. Trong thực tế dạy học, GV cần phải chú ý kết hợp hai chức năng trên bằng logic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học về sau của HS.
Phương pháp học bao gồm hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo. Trong quá trình học tập, HS vừa tiếp thu bài giảng của thầy, vừa tự điều khiển hoạt động học của bản thân, bao gồm các hoạt động tự định hướng, tự tỏ chức, tự thực hiện và tự kiểm tra đánh giá dưới sự định hướng, chỉ đạo của GV.
Như vậy, phương pháp dạy học phải thể hiện được các liên hệ biện chứng sau đây:
- Giữa hoạt động dạy và hoạt động học.
- Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong việc dạy.
- Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong việc học.
Có thể hiểu: Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của thầy tạo ra mối liên hệ qua lại với hoạt động của trò để đạt mục đích dạy học.
II. Phân loại các phương pháp dạy học sinh học
Phương pháp dạy học vô cùng đa dạng vì hoạt động dạy học chịu sự chi phối của nhiều yếu tố phức tạp: tính chất nội dung trí dục, tính đa dạng của mục đích lí luận dạy học, sự phong phú của các thao tác logic trong hoạt động dạy và hoạt động học… Vì vậy, việc phân loại hợp lý các PPDH là một vấn đề rất phức tạp.
Hiện nay cách phân loại được sử dụng phổ biến nhất là việc phân loại theo hệ thống nhị nguyên, kết hợp được mặt bên trong với mặt bên ngoài của phương pháp. Theo cách phân loại này, mỗi phương pháp cụ thể được gọi bằng tên kép: một vế chỉ mặt bên ngoài (nguồn phát thông tin), một vế chỉ mặt bên trong (logic hoạt động dạy – học). Cách phân loại này vừa thỏa mãn quan điểm triết học về thống nhất giữa hình thức và nội dung, vừa tiện lợi cho việc sử dụng của giáo viên. Cac phương pháp cụ thể rất đa dạng và ngày càng được bổ sung thêm nhờ việc nghiên cứu lí luận dạy học và sự sáng tạo của giáo viên.
Quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố cơ bản là hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này phối hợp chặt chẽ với nhau, kết quả của hoạt động này phụ thuộc vào hoạt động kia và ngược lại, nếu thiếu một trong hai hoạt động đó thì hoạt động dạy học không diễn ra. Nếu thiếu hoạt động dạy của GV thì chỉ là hoạt động tự học của người học. Còn nếu thiếu hoạt động học của người học thì hoạt động dạy không diễn ra, do đó không diễn ra hoạt động dạy học. Quá trình dạy và học liên hệ mật thiết với nhau, diễn ra đồng thời và phối hợp chặt chẽ tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và hoạt động học, từ đó tạo nên hiệu quả cho quá trình dạy học.
Phương pháp dạy học (PPDH) chính là một sự thống nhất biện chứng giữa phương pháp dạy và phương pháp học. Trong sự thống nhất này, phương pháp dạy đóng vai trò chủ đạo, phương pháp học có tính độc lập tương đối nhưng chịu sự chi phối của phương pháp dạy, đồng thời cũng có ảnh hưởng trở lại với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy gồm có hai chức năng gắn bó hữu cơ với nhau là chức năng truyền đạt và chức năng chỉ đạo (chức năng điều khiển). Giáo viên phải truyền đạt cho HS một nội dung khoa học nào đó theo một logic hợp lý, rồi từ logic nội dung đó mà định hướng tổ chức, hướng dẫn hay kiểm tra- đánh giá HS. Trong thực tế dạy học, GV cần phải chú ý kết hợp hai chức năng trên bằng logic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học về sau của HS.
Phương pháp học bao gồm hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo. Trong quá trình học tập, HS vừa tiếp thu bài giảng của thầy, vừa tự điều khiển hoạt động học của bản thân, bao gồm các hoạt động tự định hướng, tự tỏ chức, tự thực hiện và tự kiểm tra đánh giá dưới sự định hướng, chỉ đạo của GV.
Như vậy, phương pháp dạy học phải thể hiện được các liên hệ biện chứng sau đây:
- Giữa hoạt động dạy và hoạt động học.
- Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong việc dạy.
- Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong việc học.
Có thể hiểu: Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của thầy tạo ra mối liên hệ qua lại với hoạt động của trò để đạt mục đích dạy học.
II. Phân loại các phương pháp dạy học sinh học
Phương pháp dạy học vô cùng đa dạng vì hoạt động dạy học chịu sự chi phối của nhiều yếu tố phức tạp: tính chất nội dung trí dục, tính đa dạng của mục đích lí luận dạy học, sự phong phú của các thao tác logic trong hoạt động dạy và hoạt động học… Vì vậy, việc phân loại hợp lý các PPDH là một vấn đề rất phức tạp.
Hiện nay cách phân loại được sử dụng phổ biến nhất là việc phân loại theo hệ thống nhị nguyên, kết hợp được mặt bên trong với mặt bên ngoài của phương pháp. Theo cách phân loại này, mỗi phương pháp cụ thể được gọi bằng tên kép: một vế chỉ mặt bên ngoài (nguồn phát thông tin), một vế chỉ mặt bên trong (logic hoạt động dạy – học). Cách phân loại này vừa thỏa mãn quan điểm triết học về thống nhất giữa hình thức và nội dung, vừa tiện lợi cho việc sử dụng của giáo viên. Cac phương pháp cụ thể rất đa dạng và ngày càng được bổ sung thêm nhờ việc nghiên cứu lí luận dạy học và sự sáng tạo của giáo viên.